Dưới cơn gió mạnh thổi ngược chiều, tàu trượt nước vượt ngang qua vịnh Pan-cơ, nhảy vọt qua những đợt sóng phẳng. Hai nghìn năm trước, ở đây có dãy bãi cát và đảo san hô ngầm, gọi là cầu A-đam. Những quá trình địa lý mới nhất đã biến chỗ đó thành một vực sâu và làn nước tối thẫm cuộn sóng trên cái cái vực biển ngăn cách loài người khao khát tiến bộ với những người ưa nghỉ ngơi.
Mơ-ven Ma-xơ đứng bên lan can, choãi rộng chân, chăm chú nhìn đảo Lãng-quên đang dần dần lớn lên ở phía chân trời. Hòn đảo lớn có biển ấm bao quanh này là một thiên đường tự nhiên. Thiên đường theo quan niệm tôn giáo nguyên thủy của con người, tức là nơi trú ngụ sung sướng sau khi chết, không phải lo âu và làm lụng. Và đảo Lãng-quên cũng là nơi trú ngụ của những người không còn bị lôi cuốn bởi hoạt động căng thẳng của Thế giới Lớn, những người không muốn làm việc cùng với mọi người.
Ngả mình vào lòng đất, họ sống những năm êm đềm ở đây bằng hoạt động đơn giản, buồn tẻ của người làm ruộng, người đánh cá hay người chăn gia súc thời cổ.
Tuy nhân loại đã dành cho những người anh em yếu đuối của mình một khoảng đất lớn phì nhiêu, tuyệt diệu, nhưng nền kinh tế thô sơ của đảo không thể đảm bảo cho những người cư ngụ ở đó một cuộc sống hoàn toàn không sợ đói kém, đặc biệt trong những thời kỳ mất mùa, hay khi có những chuyện rắc rối khác thường xảy ra với những lực lượng sản xuất yếu. Bởi vậy, Thế giới Lớn vẫn thường xuyên nhường một phần dự trữ của mình cho đảo Lãng-quên.
Tại ba cảng — ở phía Tây Bắc, phía Nam và phía Đông đảo — người ta cung cấp lương thực để dùng trong nhiều năm, thuốc men, những phương tiện bảo vệ sinh học và những vật tối cần thiết khác. Ba người chịu trách nhiệm chính về việc quản lý đảo cũng sống ở phần phía Bắc, phía Đông và phía Nam đảo, và được gọi là trưởng ban chăn nuôi, trưởng ban ngư nghiệp.
Nhìn những dãy núi xanh lơ nhô lên ở đằng xa, Mơ-ven Ma-xơ bỗng chua xót tự hỏi không biết anh có thuộc loài «bò mộng» hay không: «bò mộng» là loại người bao giờ cũng gây khó khăn cho nhân loại, là kẻ có sức khỏe và nghị lực, nhưng hoàn toàn nhẫn tâm đối với những đau khổ và những xúc động của người khác, chỉ nghĩ tới việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Trong quá khứ xa xôi của loài người, những đau khổ, xích mích và bất hạnh bao giờ cũng bị chính những người như thế làm cho trầm trọng thêm. Đội những lốt khác nhau, họ tự xưng là những người duy nhất nắm được chân lý, họ tự cho mình có quyền đàn áp mọi ý kiến bất đồng với họ, diệt trừ mọi lối suy nghĩ và lối sống khác với họ. Từ lâu, nhân loại đã tránh mọi biểu hiện nhỏ nhặt nhất của thói chuyên chế về ý kiến, về nguyện vọng và sở thích, vì vậy loài người sợ nhất «những con bò mộng». Loại người «bò mộng» không nghĩ gì về đến những những quy luật kinh tế bất khả xâm phạm, không nghĩ gì đến tương lai, chỉ sống bằng hiện tại. Những cuộc chiến tranh và nền kinh tế vô tổ chức của kỷ nguyên Thế giớ Chia rẽ đã làm cho hành tinh bị tàn phá. Hồi ấy, người ta đốn rừng, đốt những nguồn dự trữ than và dầu hỏa đã tích được qua hàng trăm triệu năm, làm không khí bị nhiễm bẩn vì khí các-bô-níc và những chất thải hôi hám của nhà máy, giết vô số thú vật đẹp và vô hại: hươu cao cổ, ngựa vằn, voi. Tình trạng đó kéo dài cho đến khi thế giới đi tới được chế độ cộng sản. Đất bị ô nhiễm, sông và bờ biển bị nhiễm bẩn vì những dòng dầu hỏa và những chất thải hóa học. Chỉ sau khi đã làm sạch nước, không khí và đất một cách căn bản, nhân loại mới tạo được cho hành tinh của mình vẻ mặt như hiện nay: có thể đi chân đất ở khắp mọi nơi mà không hề bị thương.
Nhưng chính anh, Mơ-ven Ma-xơ, anh đảm nhiệm một cương vị hết sức quan trọng chưa được hai năm mà đã phá hủy một vệ tinh nhân tạo được sáng chế ra nhờ những cố gắng lớn của hàng nghìn người với những kỹ thuật chế tạo cao lạ thường. Anh đã làm chết bốn nhà bác học có khả năng, trong đó mỗi người đều có thể trở thành Ren Bô-dơ… Và chính Ren Bô-dơ chưa chắc đã thoát chết… Thêm nữa hình ảnh Bét Lon hiện lên rõ mồn một trước mắt anh, khiến anh cảm thông sâu sắc: bấy nay, ông ta vẫn ẩn náu ở một nơi nào trong núi và trong các thung lũng của đảo Lãng-quên. Trước khi ra đi, Mơ-ven Ma-xơ đã xem những bức chân dung của nhà toán học và nhớ mãi khuôn mặt cương nghị với cái hàm thô kệch, đôi mắt sâu, sắc sảo, sát gần nhau, cùng toàn bộ thân hình lực sỹ của ông.
Người thợ máy tàu trượt tới gần chàng trai người Phi-châu.
— Sóng dữ lắm. Chúng ta không thể ghé bờ được đâu, sóng vượt qua cả đập. Chúng ta phải vào cảng phía Nam thôi.
— Không cần. Anh có bè cấp cứu đấy chứ? Tôi sẽ để quần áo lên đó và tự bơi vào bờ.
Thợ máy và người lái tàu nhìn Mơ-ven Ma-xơ với vẻ kính trọng. Những con sóng trắng đục chồm lên nhau trên bãi cát, vọt lên thành những thác nước nặng nề, gào thét ầm ầm. Gần bờ hơn, sóng xô nhau hỗn độn, xoáy cát và bọt bốc lên thành cột lốc, ồ ạt chồm lên bãi biển thoai thoải ở sâu trong đảo. Những đám mây đen là thấp rắc xuống một cơn mưa nhỏ ấm áp, bay chênh chếch theo chiều gió và lẫn với bọt sóng bắn tung lên. Qua tấm màn mưa mù, có những hình dáng màu xám hiện lên mờ mờ ở trên bờ.
Trong lúc Mơ-ven Ma-xơ cởi quần áo và gói lại, thợ máy và thợ lái nhìn nhau. Ra dảo Lãng-quên tức là rời bỏ sự bảo hộ của xã hội mà trong đó mọi người đều bênh vực và giúp đỡ lẫn nhau. Cá nhân Mơ-ven Ma-xơ khiến cho người ta phải kính trọng, và người thợ lái đánh bạo báo cho anh biết sự nguy hiểm mà anh có thể gặp phải. Mơ-ven Ma-xơ khoát tay tỏ vẻ không quản ngại. Người thợ máy mang đến cho anh một gói nhỏ gắn kín.
— Đây là dự trữ thức ăn cô đặc dùng đúng một tháng, anh cầm lấy.
Mơ-ven Ma-xơ nghĩ ngợi một thoáng và cho cái gói thực phẩm và quần áo vào khoang không thấm nước, đóng nắp cẩn thận và cặp cái bè nhỏ dưới nách, bước qua hàng tay vịn.
— Quay ngoặt! — Anh ra lệnh.
Tàu trượt nước chao nghiêng hẳn đi vì rẽ ngoặt đột ngột. Bị hất khỏi tàu, Mơ-ven Ma-xơ bắt đầu vật lộn kịch liệt với sóng nước. Từ trên tàu trượt, người ta thấy anh bay vọt lên ngọn sóng hung dữ, rồi lại rơi xuống rãnh sóng và lại xuất hiện.
— Anh ấy sẽ vượt được — người thợ máy nói với vẻ nhẹ nhõm — Chúng ta đang bị sóng cuốn đi đấy, nên về thôi.
Bánh chân vịt rú lên, và con tàu nhỏ nhảy vọt về phía trước vì một đợt sóng ào tới đội nó lên. Hình dáng mờ tối của Mơ-ven Ma-xơ xuất hiện trên bờ với tất cả tầm cao và tan trong mưa mù.
Một tốp người đi trên cát đã được sóng lèn chặt, người nào cũng chỉ đóng khố. Họ hân hoan kéo một con cá lớn quẫy lộn dữ dội. Thấy Mơ-ven Ma-xơ, mọi người niềm nở chào anh.
— Người này mới từ thế giới bên kia đến đây — một người đánh cá mỉm cười nói — anh ta bơi giỏi ghê! Này, đến đây với chúng tôi đi!
Mơ-ven Ma-xơ nhìn những người đánh cá với vẻ thẳng thắn và niềm nở, rồi lắc đầu.
— Sống ở đây, trên bờ biển này, tôi sẽ đau lòng: cứ phải nhìn ra ngoài khơi xa bao la và nghĩ về thế giới tráng lệ mà tôi đã mất.
Một người đánh cá tóc bạc nhiều và có chòm râu rậm (có lẽ ở đây râu được coi là vật trang sức của đàn ông) đặt tay lên cái vai ướt của người mới tới.
— Người ta lại có thể dùng bạo lực tống anh ra đây ư?
Mơ-ven Ma-xơ mỉm cười chua xót và thử giải thích lý do anh đến đây.
Người đánh cá nhìn anh với vẻ buồn rầu thông cảm.
— Chúng ta không thể hiểu nhau được. Anh hãy đến nơi kia — người đánh cá chỉ về phía đông nam nơi có những tầng núi màu thanh thiên xa vời lấp ló giữa những đám mây — Đường còn xa, mà phương tiện vận chuyển thì không có gì ngoài cái này… — con người ở đảo vỗ vào những bắp thịt vạm vỡ.
Mơ-ven Ma-xơ vui sướng bỏ đi ngay và bước rộng một cách thoải mái trên con đường nhỏ ngoằn ngoèo chạy lên những quả đồi thoai thoải.
Đường đến khu vực giữa đảo dài hơn hai trăm ki-lô-mét, nhưng Mơ-ven Ma-xơ không vội.
Vội làm chi? Những ngày dài lê thê, không làm việc gì có ích nối tiếp nhau một cách chậm chạp. Thoạt tiên, khi chưa hoàn toàn bình phục sau tai nạn, cơ thể mệt mỏi của anh đòi hỏi được nghỉ ngơi giữa thiên nhiên trìu mến. Nếu như không thật ân hận về tổn thất ghê gớm đã xảy ra thì anh chỉ việc vui thú với cảnh yên tĩnh của những bình sơn nguyên hoang vu, lộng gió, tha hồ thích thú với bóng tối và cảnh tĩnh mịch của những đêm nồng nực vùng nhiệt đới.
Nhưng ngày này qua ngày khác, chàng trai lang thang trên đảo để tìm kiếm công việc vừa ý mình bắt đầu nhớ da diết Thế giới Lớn. Những thung lũng hiền hòa với những vườn cây ăn quả trồng bằng tay không còn làm anh vui sướng nữa, anh không còn bị ru ngủ trong tiếng rì rầm gần như có sức thôi miên của những con sông trong vắt từ trong núi chảy ra, mặc dù bây giờ anh có thể ngồi bao nhiêu lâu cũng được trên bờ sông, giữa buổi trưa nóng nực hay trong đêm trăng.
Thời gian nhiều vô kể… Thật vậy, tính thời gian làm gì, khi anh hoàn toàn không cần đến thời gian? Đại dương thời gian bao la vô tận, trong đó thời gian riêng của anh thật nhỏ mọn!… Một giây khắc ngắn ngủi và bị lãng quên ngay!
Mãi đến bây giờ, Mơ-ven Ma-xơ mới cảm thấy tên đảo chính xác biết nhường nào! Đảo Lãng-quên: cuộc sống cổ xưa, những việc làm và tình cảm ích kỷ của con người mà không ai biết đến! Những việc làm bị đời sau quên lãng, vì những việc đó diễn ra chỉ để phục vụ cho những nhu cầu cá nhân, không làm cho cuộc sống xã hội trở nên nhẹ nhàng hơn và tốt đẹp hơn, không tô điểm cho cuộc đời bằng những tiến bộ nhảy vọt của nghệ thật sáng tạo.
Những kỳ công chìm nghỉm vào hư không.
… Mơ-ven Ma-xơ được nhận vào cộng đồng những người chăn nuôi gia súc ở trung tâm đảo và hai tháng nay, anh chăn bầy trâu khổng lồ dưới chân một trái núi đồ sộ có cái tên dài kỳ quặc gọi theo ngôn ngữ của dân tộc mà thời xưa cư trú ở đảo này.
Bây giờ anh thường ngồi hàng giờ nấu cháo bột đen bằng cái nồi nhọ nhem, còn một tháng trước đây, anh phải đi kiếm quả và hạt ở trong rừng, tranh nhau với những con khỉ tham lam cứ ném những thức ăn thừa vào anh. Anh phải đi kiếm cái ăn vì đã nhường phần thực phẩm đem ở tàu lên cho hai ông già ở một thung lũng vắng vẻ, theo đúng tục lệ và hạnh phúc cao cả nhất của thế giới Vành-khuyên là trước hết đem lại niềm vui sướng cho người khác. Khi đó, anh mới hiểu hết thế nào là đi kiếm thức ăn ở những nơi vắng vẻ không có người ở.
Hoang phí thời gian một cách vô nghĩa biết bao…
Mơ-ven Ma-xơ rời tảng đá đứng lên và nhìn xung quanh. Mé bên trái, mặt trời đã lặn ở rìa bình sơn nguyên. Phía sau, một dỉnh núi tròn có rừng cây bao phủ nhô lên sừng sững.
Bên dưới, một con sông chảy nhanh lấp lánh trong ánh hoàng hôn, giữa những bụi tre cực to có lá hình lông chim. Ở đấy, cách nửa ngày đi bộ, có những di tích đổ nát từ nghìn xưa để lại, cây cối đã mọc lên um tùm: đấy là thủ phủ cổ xưa của đảo. Còn có cả những thành phố khác lớn hơn và được gìn giữ tốt hơn, nhưng cũng bị bỏ hoang. Lúc này Mơ-ven Ma-xơ không thiết gì đến những thứ đó.
Bầy gia súc nằm rải rác thành từng cụm màu đen trong đám cỏ đã tối thẫm lại. Đêm xuống khá nhanh. Hàng nghìn ngôi sao bừng sáng trên bầu trời đã tối. Bóng tối quen thuộc đối với nhà thiên văn, những đường nét quen thuộc của các chòm sao, những ngôi sao cực lớn sáng như đuốc. Từ đây nhìn thấy dược cả ngôi sao Đỗ-quyên tai ác… Nhưng mắt thường của con người kém cỏi biết bao! Anh sẽ không bao giờ còn được thấy những cảnh tượng hùng tráng của vũ trụ, những Thiên-hà vĩ đại hình xoáy ốc, những hành tinh bí ẩn và những mặt trời xanh. Bây giờ đối với anh, tất cả những cái đó chỉ là những đốm lửa xa vô hạn. Có thể cho đấy là những ngôi sao hay những ngọn đèn gắn vào quả cầu pha lê như người xưa từng quan niệm: nào có quan trọng gì đâu! Đối với thị giác của anh thì cũng như nhau cả thôi.
Chàng trai chồm dậy và bắt đầu chất những cành củi khô mà anh nhặt được thành một đống. Đây là một vật nữa đã trở nên cần thiết: chiếc bật lửa nhỏ. Có lẽ theo gương một số người ở đây, anh sẽ bắt đầu hít thứ khói ma túy để rút ngắn thời gian dài đằng đẵng cứ bám riết lấy anh.
Những ngọn lửa nhảy nhót, xua tan bóng tối và át cả các vì sao. Gần đó, những con trâu thở phì phò một cách hiền lành. Mơ-ven Ma-xơ trầm ngâm nhìn đống lửa.
Phải chăng hành tinh tươi sáng đã trở thành ngôi nhà tối tăm đối với anh?
Không, sự tự đọa đầy mình một cách kiêu hãnh của anh chỉ là thói tự tín vì không hiểu biết: không hiểu chính bản thân mình, đánh giá thấp giá trị cao cả của cuộc sống đầy sáng tạo mà anh đã từng được sống, không hiểu được sức mạnh tình yêu với Tsa-ra. Thà đổi một giờ phục vụ cho Thế giới Lớn còn hơn sống một thế kỷ ở đây.
Trên đảo Lãng-quên có ngót hai trăm trạm y tế với những bác sỹ đến từ Thế giới Lớn đến làm việc ở đây. Các trạm y tế đó đã đem lại cho những người ở đảo tất cả sức mạnh của y học hiện đại. Thanh niên của Thế giới Lớn đến làm việc trong các đội tảo thanh vệ sinh để làm cho đảo không trở thành cái ổ sinh ra những bệnh cổ xưa hay trở thành nơi sản sinh ra những con vật có hại. Mơ-ven Ma-xơ cố tránh không gặp những người ấy để khỏi cảm thấy mình là kẻ bị ruồng bỏ trong thế giới của vẻ đẹp và kiến thức.
Sáng tinh mơ, một người chăn gia súc khác đến thay Mơ-ven Ma-xơ. Anh được rảnh việc hai ngày và định đến một thị trấn nhỏ để lấy một chiếc áo mưa: đêm trong núi đã bắt đầu lạnh.
Lúc Mơ-ven Ma-xơ rời bình sơn nguyên và ra một vùng đồng bằng rộng thì ngày đang nóng nực và yên tĩnh. Đồng bằng này là cả một biển hoa màu tím nhạt và vàng rực, có những con bướm sặc sỡ bay lượn bên trên. Những đợt gió nhẹ làm ngọn cây lay động và những bông hoa dịu dàng quệt tràng hoa vào hai đầu gối để trần. Đến giữa một cánh đồng bao la, Mơ-ven Ma-xơ dừng lại, mê mải vì vẻ đẹp thanh thoát, rộn ràng và ngây ngất vì mùi thơm ngào ngạt và ngây ngất của khu vườn hoang này. Anh trầm ngâm cúi xuống đưa hai lòng bàn tay vuốt nhẹ trên những cánh hoa lay động trước gió, cảm thấy mình đang sống trong giấc chiêm bao của trẻ em.
Có tiếng leng keng nhịp nhàng vẳng tới, êm nhẹ như hơi gió. Mơ-ven Ma-xơ ngẩng đầu lên và thấy một cô gái đang đi nhanh, nửa thân dưới từ ngang lưng trở xuống ngập trong hoa. Cô gái đi rẽ về phía khác, và anh thích thú nhìn cái dáng hình cân đối giữa biển hoa.
Một cảm giác luyến tiếc nhói buốt trong lòng anh: đấy có thể là Tsa-ra nếu như… nếu như mọi việc diễn ra theo chiều hướng khác.
Con mắt quan sát của nhà bác học ngầm bảo anh rằng cô gái đang lo lắng. Cô gái cứ luôn luôn nhìn quanh và rảo bước, hình như cô sợ cái gì đằng sau, Mơ-ven Ma-xơ đổi hướng và đi nhanh đến đến gần cô gái, vươn hết tầm vóc đồ sộ của mình. Cô gái không quen biết dừng lại. Một tấm khăn sặc sỡ buộc chéo ngang lưng cô, gấu váy đỏ đã thẫm lại vì đẫm sương.
Những vòng xuyến mảnh trên đôi tay lộ trần chạm vào nhau, phát ra tiếng kêu to hơn khi cô đưa tay lên vén những đám tóc thẫm màu bị gió làm xõa xuống mặt. Cặp mắt buồn rầu đượm vẻ đăm chiêu dưới những búp tóc ngắn xõa tung trên má. Cô gái thở hổn hển, có lẽ vì đi bộ một quãng đường dài. Những giọt mồ hôi nhỏ lấm tấm trên khuôn mặt đẹp có nước da bánh mật của cô. Cô gái bước mấy bước ngập ngừng về phía anh.
— Chị là ai và đi đâu mà hấp tấp thế? — Mơ-ven Ma-xơ hỏi — Có lẽ chị cần được giúp đỡ chăng?
Cô gái quan sát anh một cách chăm chú và nói hấp tấp, như đứt hơi: — Tôi là Ô-na ở xóm Năm. Nhưng tôi không cần giúp đỡ.
— Tôi lại thấy khác. Chị mệt mỏi, và có điều gì đang dày vò chị. Cái gì có thể đe dọa chị?
Tại sao chị lại từ chối sự giúp đỡ của tôi.
— Tôi biết anh là ai rồi. Anh là người ở nơi kia đến — chị chỉ về phía châu Phi — Anh là một người tốt bụng và thật thà.
— Mong rằng chị cũng như thế. Có kẻ nào đang theo rình chị chăng?
— Vâng! — Cô gái thốt lên với vẻ thất vọng — Ông ta đang theo đuổi tôi.
— Hắn là ai mà dám làm cho chị sợ hãi, dám truy đuổi chị?
Cô gái đỏ bừng mặt và cúi gằm xuống.
— Một người đàn ông. Hắn muốn tôi trở thành…
— Nhưng chị có quyền lựa chọn cơ mà? Sao lại có thể ép duyên được? Y tới đây rồi tôi sẽ bảo cho biết…
— Không nên! Hắn cũng từng là người của Thế giới Lớn, đã đến đây lâu rồi, và hắn cũng rất khỏe… Có điều hắn không được như anh… Hắn đáng sợ lắm.
Mơ-ven Ma-xơ phá lên cười một cách hồn nhiên.
— Chị đi đâu đấy?
— Về xóm Năm. Tôi thường đi về thị trấn gấp và gặp…
Mơ-ven Ma-xơ gật đầu và cầm tay cô gái. Cô để yên cho anh nắm tay cô và hai người đi trên con đường nhỏ dẫn về khu cư trú.
Lúc đi đường, chốc chốc cô lại lo lắng nhìn quanh, cô kể với anh rằng người kia truy lùng cô ở khắp nơi. Việc cô gái e sợ không dám nói năng đường hoàng khiến Mơ-ven Ma-xơ phẫn nộ vô cùng. Anh không thể bình tâm khi thấy có sự áp bức xảy ra vào thời này, trên Trái đất đã được tổ chức tốt đẹp, dù đó là hành động áp bức hết sức ngẫu nhiên!
— Tại sao mọi người ở khu vực của chị không làm gì cả? — Mơ-ven Ma-xơ nói — và tại sao Ban kiểm tra Danh dự và Quyền lợi không hay biết gì hết? Chẳng lẽ các trường học ở đây không dạy lịch sử, và mọi người không biết rằng, những ổ bạo lực, dù là nhỏ, thường dẫn đến kết quả như thế nào ư?
— Các trường có dạy… chúng tôi biết — Ô-na đáp và nhìn về phía trước.
Họ đã ra khỏi cánh đồng hoa, và con đường nhỏ rẽ ngoặt một cách đột ngột, lẩn vào sau một bụi rậm. Từ sau khúc ngoặt, một người cao lớn, cau có xuất hiện đứng chắn ngang đường. Người đó cởi trần, và những bắp thịt lực sỹ lộ ra dưới làn tóc hoa râm xõa xuống nửa thân trên. Cô gái lật đật giằng tay ra, thì thầm: — Tôi sợ cho anh. Anh đi đi, hỡi con người của Thế giới Lớn.
— Đứng lại! — Cái giọng hách dịch gầm lên.
Trong thời đại Vành-khuyên, chẳng ai nói năng thô lỗ như thế. Tự nhiên Mơ-ven Ma-xơ đứng che lấp cô gái.
Người cao lớn đến gần và toan xô anh ra, nhưng Mơ-ven Ma-xơ đứng sừng sững như tảng đá.
Thế là, nhanh như chớp, người đàn ông không quen biết giáng cho anh một quả đấm vào giữa mặt. Mơ-ven Ma-xơ lạng người đi. Cả đời anh chưa bao giờ bị đánh những đòn có chủ tâm, tàn nhẫn đến như thế, đánh để gây đau đớn ghê gớm, để làm cho người khác choáng váng, để làm nhục con người.
Đầu váng mắt hoa, anh loáng thoáng nghe thấy tiếng kêu đau xót của Ô-na. Anh xông vào kẻ kia, nhưng hai cú đánh trời giáng đã làm anh ngã nhào xuống đất. Ô-na quỳ thụp xuống, lấy thân mình che cho anh, nhưng kẻ thù rú lên một tiếng đắc thắng, vồ lấy cô. Hắn bẻ quặt khuỷu tay cô gái về phía sau, và cô oằn mình xuống với vẻ đau đớn, khóc nức lên, đỏ mặt tía tai vì tức giận.
Nhưng Mơ-ven Ma-xơ đã hồi lại. Thời thanh niên, khi thực hiện những chiến công Héc- quyn, anh đã từng trải qua những cuộc giao tranh gay go hơn với những kẻ thù không tuân theo luật lệ của con người. Anh nhớ lại tất cả những gì đã được học để chiến đấu tay không với những con vật nguy hiểm.
Mơ-ven Ma-xơ thong thả đứng lên, đưa mắt nhìn vào mặt kẻ thù, khuôn mặt méo đi vì cuồng nộ. Anh nhắm một điểm để giáng một đòn ác liệt, nhưng bỗng nhiên, anh vươn thẳng người, lùi lại một bước.
Anh đã nhận ra khuôn mặt đáng chú ý ấy, khuôn mặt đã ám ảnh anh bao nhiêu lâu trong những suy nghĩ khổ ải về quyền được làm thí nghiệm ở Tây Tạng.
— Bét Lon!
Người kia buông cô gái ra và sững sờ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lạ mặt có nước da sẫm màu, mà lúc này đã mất vẻ hiền từ vốn có trước kia.
— Bét Lon, tôi đã từng nghĩ nhiều về cuộc gặp gỡ với ông, tôi coi ông là người cùng chịu cảnh ngộ rủi ro như tôi — Mơ-ven Ma-xơ hét lên — nhưng không bao giờ tôi tưởng tượng là sẽ như thế này!
— Nghĩa là thế nào? Bét Lon hỏi giọng có vẻ trâng tráo, cố giấu vẻ hằn học rực lên trong mắt. Mơ-ven Ma-xơ xua tay.
— Nói những lời trống rỗng để làm gì? Trong thế giới kia, ông không hề nói những lời như thế, và tuy ông hành động tội lỗi, nhưng vì một ý tưởng lớn lao. Còn ở đây thì vì cái gì?
— Vì bản thân ta, và chỉ để phục vụ bản thân ta thôi! — Bét Lon rít lên với vẻ khinh miệt — Ta chú ý đến những kẻ khác, đến phúc lợi chung như thế là đủ rồi! Con người không cần đến cái đó, theo như ta hiểu. Một số nhà thông thái đời xưa cũng đã biết điều đó.
— Ông chưa bao giờ nghĩ về những người khác, Bét Lon ạ — Chàng trai người Phi ngắt lời ông ta — Hoàn toàn sống buông thả như ông hiện nay, đi cưỡng hiếp người khác thì không khác gì súc vật!
Nhà toán học chực nhảy xổ vào Mơ-ven Ma-xơ, nhưng rồi tự kìm lại được.
— Đủ rồi, anh nói quá nhiều!
— Tôi thấy rằng ông đã mất quá nhiều, vì thế tôi muốn…
— Nhưng ta không muốn xéo đi!
Mơ-ven Ma-xơ không nhúc nhích. Đầu cúi nghiêng, đầy vẻ tự tin và đáng sợ, anh đứng trước Bét Lon, đồng thời cảm thấy vai cô gái chạm vào mình và đang run lên. Sự run sợ đó làm cho anh tức giận còn ghê gớm hơn cả khi bị đánh.
Nhà toán học không nhúc nhích, nhìn vào cặp mắt bừng bừng lửa giận của chàng trai người Phi.
— Đi đi — ông ta thở dài đánh thượt một tiếng và lùi ra nhường đường.
Mơ-ven Ma-xơ lại cầm tay Ô-na và dẫn cô đi giữa các bụi cây, nhưng vẫn cảm thấy cái nhìn căm thù của Bét Lon. Đến chỗ ngoặt, Mơ-ven Ma-xơ dừng lại bất ngờ đến nỗi Ô-na xô vào lưng anh.
— Bét Lon, chúng ta cùng nhau trở về Thế giới Lớn đi Nhà toán học phá lên cười, vẫn có vẻ vô tâm như trước, nhưng thính giác nhạy bén của Mơ-ven Ma-xơ đã bắt được cái âm thanh chua xót trong giọng nói ngạo ngược của ông ta.
— Anh là ai mà đề nghị với tôi như thế? Anh có biết rằng…
— Tôi biết. Tôi cũng đã làm một thí nghiệm bị cấm khiến cho những người tin cậy tôi phải bỏ mạng. Tôi đi sát con đường của ông trong việc nghiên cứu, và chúng ta… tôi và ông cùng những người khác đứng trước ngưỡng cửa của thắng lợi. Mọi người cần ông, nhưng không phải như thế này…
Nhà toán học bước đến gần anh và gằm mặt xuống, nhưng đột nhiên ông quay đi và ngoái cổ lại, tung ra những lời khước từ thô lỗ với vẻ khinh miệt.
Mơ-ven Ma-xơ lẳng lặng đi trên con đường nhỏ.
Chỉ còn ngót mười ki-lô-mét nữa là đến xóm Năm.
Được biết cô gái sống một mình, Mơ-ven Ma-xơ khuyên cô đến bờ đảo phía Đông, vào ở trong các khu dân cư ven biển để khỏi phải gặp con người tàn bạo ấy. Nhà bác học nổi tiếng trước kia đã trở thành tên bạo chúa trong cuộc sống yên lành và rời rạc của các xóm nhỏ vùng núi.
Để phòng ngừa hậu quả, Mơ-ven Ma-xơ quyết định lập tức đến khu dân cư và yêu cầu theo dõi con người ấy. Mơ-ven Ma-xơ từ biệt Ô-na ở lối vào xóm.
Cô gái kể với Mơ-ven Ma-xơ rằng mới đây, trong các khu rừng của dãy núi chỏm tròn, hình như mới có hổ xuất hiện. Đấy là những con hổ đã chạy khỏi các khu rừng cấm hoặc là từ trước đến nay vẫn còn ẩn náu được trong những khu rừng rậm rịt không thể lọt vào được, bao quanh trái núi cao nhất đảo. Cô nắm chặt lấy tay anh, cầu xin anh hãy thận trọng và dứt khoát đừng vượt qua núi vào ban đêm. Mơ-ven Ma-xơ rảo bước đi ngược trở lại. Khi suy nghĩ về sự việc đã xảy ra, anh thấy trước mắt cái nhìn đầy vẻ lo ngại và trung thành của cô gái trong phút cuối cùng. Lần đầu tiên, Mơ-ven Ma-xơ nghĩ về những người anh hùng chân chính thời xưa; những người vẫn giữ được bản chất tốt đẹp trong cảnh bị lăng nhục, phải chịu đựng sự hằn thù và những đau khổ về thể chất. Họ đã lập được kỳ công khó khăn, nhất là giữ được bản chất chân chính của con người khi hoàn cảnh xung quanh lại thúc đẩy sự phát triển tính tự ái thú vật.
Tính tự ái hai mặt của cuộc sống bao giờ cũng phơi bày trước con người những mâu thuẫn của nó. Trong thế giới cổ đại, giữa những nguy hiểm và sự lăng nhục, sức mạnh của tình yêu thương, của lòng trung thành và sự trìu mến tăng gấp bội chính vào lúc người ta đứng ở bờ vực của cái chết, xung quanh là sự thù địch và thô bạo. Sự khuất phục thói ngông cuồng của sức mạnh thô bạo làm cho mọi cái đều trở nên không bền và bấp bênh. Số phận của từng người bất cứ lúc nào cũng có thể thay đổi hết sức đột ngột, làm tan vỡ những kế hoạch, hy vọng và dự định của người đó, vì trong xã hội hỗn độn thời xưa, có quá nhiều cái phụ thuộc vào những con người ngẫu nhiên. Nhưng tính chất không bền của những hy vọng, của tình yêu và hạnh phúc trong xã hội đời xưa không làm cho tình cảm yếu đi mà lại làm cho nó mạnh lên.
Đó là lý do vì sao cái tốt đẹp nhất của con người không thể bị tiêu diệt, bất chấp thử thách nặng nề của tình trạng nô lệ trong thời trung cổ hay trong kỷ nguyên Thế giới Chia rẽ.
Lần đầu tiên, Mơ-ven Ma-xơ nghĩ rằng trong cuộc sống thời xưa, cuộc sống mà người thời này cho là hết sức cực khổ, cũng vẫn có cả hạnh phúc, cả hy vọng cả sự sáng tạo. Và đôi khi, những cái đó còn mạnh hơn cả bây giờ, trong kỷ nguyên Vành-khuyên đầy tự hào.
Mơ-ven Ma-xơ nhớ lại những nhà lý thuyết khoa học thời ấy đã dựa trên quan niệm sai lạc về sự biến đổi chủng loại một cách chậm chạp trong thiên nhiên và đoán trước rằng trong một triệu năm nữa loài người cũng không khá hơn, và anh gần như giận sôi lên.
Nếu như họ yêu mến con người và hiểu biết biện chứng của sự phát triển thì không bao giờ ý nghĩ kỳ quặc như thế có thể xảy ra trong óc họ.
Tấm màn mây phía sau cái cái vai tròn của trái núi đồ sộ đã nhuốm màu hoàng hôn. Mơ- ven Ma-xơ lao mình xuống con sông nhỏ.
Tắm xong. Cảm thấy tỉnh táo và hoàn toàn yên tâm, anh ngồi trên tấm đá phẳng để chờ khô người và nghỉ một lát. Anh không kịp đến thị trấn trước khi đêm xuống, và anh định vượt qua núi khi trăng lên. Đang trầm ngâm ngắm nhìn làn nước sủi réo trên đá, anh bỗng cảm thấy có ai đang nhìn mình, nhưng anh không thấy ai cả. Cái cảm giác về cặp mắt vô hình nào đó đang theo dõi mình khiến Mơ-ven Ma-xơ khó chịu ngay cả khi anh vượt qua sông và leo lên bờ.
Mơ-ven Ma-xơ đi nhanh trên con đường đã được đầm chặt vì xe tải qua lại nhiều. Con đường này dẫn lên một cao nguyên cao một nghìn tám trăm mét. Anh leo hết bậc sườn này đến bậc sườn khác để vượt qua nhánh núi có rừng và đến thị trấn bằng con đường ngắn nhất.
Vầng trăng non lưỡi liềm có thể soi đường cho anh không quá một tiếng rưỡi. Vượt được con đường mòn dốc ngược trên núi trong đêm không trăng hẳn là hết sức vất vả. Mơ-ven Ma-xơ không vội vã. Mặt đất khô ngời ngợi ánh trăng. Cây cối thưa thớt không cao lắm in xuống đất những vệt bóng dài, tạo thành những dải vằn đen. Mơ-ven Ma-xơ bước đi, chăm chú nhìn xuống chân để khỏi vấp phải vô số nhánh rễ nhỏ, vừa đi vừa nghĩ ngợi.
Một tiếng gầm ghê rợn, rung chuyển bay là là mặt đất, vang lên từ một nơi nào xa xa mé bên phải, chỗ sườn dốc của nhánh núi thoai thoải chạy lên cao và chìm trong bóng tối đen ngòm. Một tiếng gầm trầm nặng đáp lại trong khu rừng, giữa những vệt và dải ánh trăng.
Những âm thanh ấy gợi nên ý thức về một sức mạnh đột nhập vào ngóc ngách của tâm hồn, làm thức tỉnh những cảm giác đã bị lãng quên từ lâu: nỗi sợ hãi về cái chết không tránh khỏi của con mồi đã bị một con thú dữ không gì chống lại nổi nhắm bắt để ăn thịt. Dường như để chống lại nỗi kinh hãi cổ xưa, tính cuồng chiến không kém phần cổ xưa cũng bùng lên: đấy là di sản của vô số thế hệ anh hùng vô danh đã bảo vệ quyền sống của giống người giữa những con ma-mút, những con sư tử, những con gấu khổng lồ, những con bò mộng điên cuồng và những bầy chó sói tàn ác trong những ngày đi săn nhọc nhằn và những đêm tự vệ kiên cường.
Mơ-ven Ma-xơ dừng lại, nhìn quanh và nín thở. Chẳng thấy cái gì động đậy trong đêm tối vắng lặng, nhưng Mơ-ven Ma-xơ vừa bước vài bước trên đường thì anh hiểu rằng anh bị rình sát gót. Hổ chăng? Những điều Ô-na cho biết là đúng ư?
Mơ-ven Ma-xơ bỏ chạy, cố nghĩ xem mình phải làm gì khi những con thú dữ nhảy vồ vào anh; mà chắc chắn có hai con.
Trèo lên cây cao thì vô ích, vì hổ leo cây giỏi hơn người. Chống cự ư? Xung quanh chỉ có sỏi đá, thậm chí không thể kiếm lấy một cây gậy ra hồn bằng cách bẻ cành cây, vì những cành cây này cứng như sắt. Khi tiếng gầm gừ đã sát ngay sau lưng, Mơ-ven Ma-xơ hiểu rằng anh sẽ chết. Những cành cây lòa xòa phía trên con đường nhỏ bụi bặm khiến anh cảm thấy ngạt thở trong phút giây chót. Anh muốn thu lấy sự can đảm từ những khoảng sâu vĩnh cửu của bầu trời sao mà trước đây anh đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu. Anh nhảy những bước rất dài. Số phận đã gia ân cho anh: anh nhảy tới một bãi trống rộng lớn. Ở giữa bãi, anh thấy một đống mảnh đá vỡ do núi sụt lở. Anh nhảy bổ tới, vồ lấy một tảng đá có cạnh sắc nặng ba mươi ki-lô-gam và quay mặt về phía rừng. Bây giờ anh thấy những hình bóng mờ ảo đang tiến đến. Mình có sọc vằn, chúng lẫn với những bóng tối đan chéo nhau của khu rừng thưa.
Mặt trăng đã xuống ngang ngọn cây. Những vệt bóng chạy ngang bãi trống bây giờ đã dài hơn trước. Hai con mèo cực lớn lần theo những dải tối đen ấy bò tới gần Mơ-ven Ma-xơ.
Cũng như lần ở trong căn buồng ngầm dưới đất tại Tây-tạng, Mơ-ven Ma-xơ cảm thấy cái chết sắp tới. Bây giờ nó không nảy sinh từ bản thân anh, mà từ bên ngoài, rực lên ánh lửa màu lục trong những con mắt phát ánh sáng lân tinh của hai con thú dữ. Mơ-ven Ma-xơ hít luồng gió vừa ùa vào bầu không khí ngột ngạt oi bức. Anh nhìn lên trời, chiêm ngưỡng cái vinh quang chói lọi của vũ trụ, và vươn thẳng người, giơ cao tảng đá trên đầu.
— Tôi đến giúp anh đây, anh bạn ạ!
Một bóng đen cao lớn từ trong bóng tối của sườn núi nhảy vọt lên bãi trống, vung cao một cành cây ngoằn nghoèo, điệu bộ coi đến dữ tợn. Nhận ra nhà toán học, Mơ-ven Ma-xơ sửng sốt đến nỗi trong giây lát, anh quên bẵng những con hổ. Bét Lon hầu như tắc thở vì chạy hộc tốc, ông đứng bên cạnh Mơ-ven Ma-xơ, mồm há hốc đớp không khí. Những con mèo khổng lồ thoạt tiên lùi lại, rồi lại bắt đầu tiến tới, nhất quyết không bỏ mồi. Con hổ bên trái chỉ còn cách ba mươi bước. Nó nhún hai chân sau, chuẩn bị nhảy.
— Mau lên! — Một tiếng thét sang sảng vang ra khắp bãi.
Ánh lửa sáng nhạt của các súng phóng lựu lóe lên từ ba phía, sau lưng Mơ-ven Ma-xơ. Vì bất ngờ, anh buông rơi vũ khí của mình. Con hổ gần nhất chồm ngược lên, vươn hết chiều dài thân. Những quả lựu đạn gây tê liệt nổ như tiếng trống, và con thú ngã ngửa ra. Con thứ hai nhảy về phía rừng. Ở phía sau, có thêm ba bóng người cưỡi ngựa xuất hiện. Quả lựu đạn bằng thủy tinh có tích điện cực mạnh đập vào trán con hổ. Nó vươn dài ra, đập đầu xuống cỏ khô.
Một trong những người cưỡi ngựa phóng lên trước. Chưa bao giờ Mơ-ven Ma-xơ cảm thấy bộ quần áo làm việc của Thế giới Lớn đẹp đến thế: cái quần rộng, ngắn, ống cao hơn đầu gối, chiếc áo sơ-mi thoải mái bằng vải đay nhân tạo màu xanh lơ, cổ hở rộng và có hai túi ngực.
— Mơ-ven Ma-xơ, tôi cảm thấy anh gặp nguy hiểm!
Lẽ nào anh không nhận ra cái giọng cao ấy, lúc này nó bộc lộ vẻ lo lắng khôn cùng! Tsa-ra Nan-đi!…
Anh quên trả lời và đứng ngây như phỗng cho đến khi cô gái nhảy xuống ngựa và chạy đến gần anh. Tiếp đó, năm người cùng đi với cô cũng đến. Mơ-ven Ma-xơ không nhìn rõ họ vì vầng trăng lưỡi liềm đã lặn xuống sau rừng cây. Đêm tối ngột ngạt bao phủ khu rừng và bãi đất trống. Tay Tsa-ra tìm được khuỷu tay Mơ-ven Ma-xơ. Anh nắm lấy cổ tay mảnh dẻ của cô gái và áp lòng bàn tay cô vào ngực mình, chỗ trái tim anh đang đập rộn ràng. Những đầu ngón tay Tsa-ra ve vuốt rất nhẹ một múi bắp thịt nổi phồng lên, cử chỉ âu yếm kín đáo ấy khiến cho Mơ-ven Ma-xơ cảm thấy tâm hồn thư thái tuyệt trần.
— Tsa-ra, đây là Bét Lon, người bạn mới…
Mơ-ven Ma-xơ quay lại và nhận thấy nhà toán học đã biến mất. Anh liền hướng về phía bóng tối, gào thật to: — Bét Lon, đừng bỏ đi!
— Tôi sẽ đến! — Giọng nói oang oang từ đằng xa vọng lại, giờ đây không còn đượm vẻ trâng tráo và chua xót nữa. Một trong những người cùng đi với Tsa-ra, có lẽ là lãnh đạo nhóm, tháo cây đèn báo hiệu buộc ở sau yên ngựa ra. Ánh sáng yếu ớt cùng với sóng ra-đi-ô vô hình bay lên trời. Mơ-ven Ma-xơ đoán rằng, những người mới tới đang chờ một thiết bị bay.
Cả năm người đều là những gã trai mới lớn làm việc trong đội tảo thanh vệ sinh, họ đã chọn một trong những chiến công Héc-quyn của mình là tuần tra và diệt trừ những giống vật có hại trên đảo Lãng-quên. Tsa-ra Nan-đi gia nhập đội để đi tìm Mơ-ven Ma-xơ.
— Chú lầm rồi, chúng cháu không tinh được đến mức ấy đâu — gã đội trưởng nói, khi mọi người đã ngồi quanh cây đèn chiếu và Mơ-ven Ma-xơ bắt đầu hỏi tại sao họ biết anh gặp nguy mà tìm đến — một cô gái có cái tên cổ Hy-lạp đã giúp chúng cháu.
— Ô-na! — Mơ-ven Ma-xơ kêu lên.
— Đúng, Ô-na. Đội chúng cháu từ phía Nam đến xóm Năm thì cô ấy chạy đến, mệt gần đứt hơi. Cô ấy xác nhận tin đồn có hổ xuất hiện, chính tin đồn ấy đã làm chúng cháu đến đây, cô ấy khuyên chúng cháu nên đi theo chú ngay, vì sợ chú có thể bị hổ vồ khi chú vượt qua núi để đến thị trấn. Và chú thấy đấy, chúng cháu vừa đến kịp.
Bây giờ, máy bay vận tải hình đinh vít sắp tới, và chúng cháu sẽ đưa những kẻ thù của chú về lại rừng cấm, chúng sẽ tạm thời bị tê liệt. Nếu quả thật chúng ăn thịt người thì chúng sẽ bị giết chết, nhưng không thể giết một vật hiếm hoi thế này mà không thử.
— Thử thế nào?
Gã trai nhướn lông mày.
— Điều đó ở ngoài thẩm quyền của chúng cháu. Có lẽ là trước hết hãy làm cho chúng trở nên lành tính. Chúng sẽ được tiêm thứ thuốc làm giảm bớt tính hung hãn. Khi đã tạm thời trở nên suy yếu, con hổ sẽ được dạy dỗ nhiều điều. Hai con đã chực vồ chú cũng sẽ được dạy dỗ như thế.
Một âm thanh vang động, rung chuyển ngắt lời gã thiếu niên. Từ trên cao, một khối tối thẫm hạ xuống chầm chậm. Ánh sáng chói lòa tràn ngập bãi trống. Những con mèo vằn bị nhốt trong những thùng đựng đồ vật dễ vỡ. Con tàu đồ sộ, chỉ nhìn thấy mờ mờ trong bóng tối đã biến mất, và ánh sáng sao đêm êm ả lại tỏa xuống bãi. Một trong năm gã thiếu niên đi cùng với hai con hổ, còn ngựa của nó thì nhường lại cho Mơ-ven Ma-xơ.
Ngựa của chàng trai người châu Phi và của Tsa-ra đi cạnh nhau. Con đường đổ xuống thung lũng sông Gan-lê. Ở cửa sông có một trạm y tế và một cơ sở của đội tảo thanh vệ sinh.
— Đây là lần đầu tiên tôi ra biển kể từ khi sống ở đảo này — Mơ-ven Ma-xơ phá tan sự im lặng — Cho đến giờ, tôi vẫn có có cảm giác rằng biển là bức tường ngăn cấm, vĩnh viễn tách rời tôi khỏi thế giới.
— Hòn đảo là một trường học mới đối với anh ư? — Tsa-ra nói với vẻ vui sướng nửa như dò hỏi.
— Đúng. Trong một thời gian ngắn, tôi đã trải qua nhiều sự việc và suy nghĩ lại nhiều điều.
Tất cả những ý nghĩ ấy lởn vởn trong óc tôi từ lâu…
Mơ-ven Ma-xơ thổ lộ những mối e ngại lâu nay của anh là nhân loại phát triển quá hợp lý, thiên về kỹ thuật nhiều quá và như vậy sẽ lặp lại những sai lầm thời xưa, cố nhiên là dưới hình thức ít quái gở hơn nhiều. Anh có cảm tưởng rằng trên hành tinh của Đỗ-quyên ép-xi- lon, loài người rất giống Trái đất và cũng đẹp như thế, nhưng quan tâm nhiều hơn đến việc làm cho mặt cảm xúc của tâm lý trở nên hoàn mỹ.
— Tôi đã đau khổ nhiều về cảm giác không hoàn toàn hòa hợp với cuộc sống — cô gái trả lời sau một lúc im lặng — Tôi cần một cái gì cổ xưa nhiều hơn, còn đối với cuộc sống xung quanh thì tôi ít cần hơn nhiều. Tôi mơ ước một thời đại không hao phí những sức mạnh và tình cảm đã tích lũy được nhờ sự chọn lọc nguyên thủy trong thế kỷ Ê-rốt, — thế kỷ đã từng tồn tại ở Địa-trung-hải cổ đại, và tôi cũng mong muốn thức tỉnh sức mạnh tình cảm thực sự trong khán giả của tôi. Nhưng chỉ có Ép-đa Nan là hiểu tôi thấu đáo.
— Cả Mơ-ven Ma-xơ nữa — Anh nói thêm với vẻ nghiêm trang, và kể cho chị nghe nguyên do làm sao anh coi chị là người con gái da đỏ của sao Đỗ-quyên.
Cô gái ngẩng mặt lên, và dưới ánh sáng bẽn lẽn của bình minh mới hé, Mơ-ven Ma-xơ thấy cặp mắt to và sâu đến nỗi anh hơi choáng váng, anh lui ra xa và phá lên cười.
— Hồi xưa, trong những tiểu thuyết tương lai, tổ tiên chúng ta hình dung chúng ta là những người còi cọc, thiếu sức sống, có cái sọ quá phát triển. Mặc dù đã mổ và hành hạ hàng triệu con vật, tổ tiên ta vẫn không hiểu được bộ não người, bởi vì họ thọc dao vào chỗ cần phải dùng máy đo hết sức tinh vi có kích thước phân tử và nguyên tử. Bây giờ chúng ta biết rằng hoạt động mạnh mẽ của lý trí đòi hỏi một cơ thể cường tráng đầy sinh lực, nhưng cơ thể như thế lại sản sinh ra những cảm xúc mạnh.
— Và vẫn như trước, chúng ta sống trong xiềng xích của lý trí — Tsa-ra Nan-đi đồng ý.
— Chúng ta đã làm được nhiều điều để sửa lại tình trạng đó, nhưng dẫu sao mặt trí tuệ của chúng ta vẫn bỏ xa mặt cảm xúc. Cần phải chăm lo đến cảm xúc, sao cho không phải nó cần được lý trí trói buộc, mà ngược lại, lý trí phải được nó kiềm chế. Tôi cho rằng việc đó quan trọng đến mức tôi đã định viết một cuốn sách.
— Ồ cố nhiên rồi! — Tsa-ra hăm hở reo lên, nhưng rồi chị bối rối và nói tiếp — Không có mấy nhà bác học lớn chịu chuyên tâm nghiên cứu những quy luật của cái đẹp và sự đầy đủ của tình cảm… Tôi không nói về mặt tâm lý đâu.
— Tôi hiểu chị! — Chàng trai người Phi-châu trả lời, bất giác anh ngắm nghía cô gái, cô cố nén sự bối rối, cất cao mái đầu kiêu hãnh đón gặp những tia nắng ban mai, vì thế nước da cô nhuộm màu đồng đỏ càng rõ hơn.
Tsa-ra ngồi một cách ung dung trên lưng con ngựa ô cao lớn, đi nhịp bước với con ngựa sắc hung của Mơ-ven Ma-xơ.
— Chúng ta tụt lại sau rồi! Cô gái kêu lên, kéo cương, và con ngựa lập tức phóng về phía trước.
Mơ-ven Ma-xơ đuổi kịp Tsa-ra, và hai người phóng đi cạnh nhau trên con đường đã có từ lâu. Khi đuổi kịp những người bạn trẻ tuổi, họ kìm ngựa lại, và Tsa-ra quay về phía Mơ-ven Ma-xơ.
— Còn cô gái tên Ô-na thì thế nào?
— Cô ấy cần trở về Thế giới Lớn. Chính chị đã nói rằng cô ấy đến đảo là do hoàn cảnh ngẫu nhiên: mẹ cô ấy phải đến đây, cô ấy không nỡ rời mẹ. Nhưng mẹ cô ấy mới qua đời cách đây ít lâu. Ô-na mà làm việc với Vê-đa thì tốt: công việc khai quật cần những bàn tay nhạy cảm và dịu dàng của phụ nữ. Ngoài ra, còn hàng nghìn công việc cần đến những bàn tay như thế.
Thêm nữa, Bét Lon, người bạn mới sắp trở về với chúng ta sẽ tìm cô ấy, nhưng với tình cảm khác trước!…
Tsa-ra nhíu đôi lông mày, chăm chú nhìn Mơ-ven Ma-xơ.
— Anh sẽ không lìa bỏ những ngôi sao của mình chứ?
— Dù Hội đồng quyết định như thế nào, tôi cũng sẽ quyết định nghiên cứu vũ trụ. Nhưng trước hết tôi cần phải viết về…
— Về những ngôi sao của tâm hồn con người chứ gì?
— Đúng, Tsa-ra ạ! Tôi ngây ngất vì sự muôn hình muôn vẻ của những ngôi sao ấy… — Mơ- ven Ma-xơ im bặt khi nhận thấy cô gái nhìn anh với vẻ trìu mến — Chị không đồng với ý nghĩ đó chăng?
— Cố nhiên là tôi đồng ý chứ! Tôi nghĩ về thí nghiệm của anh. Anh làm thí nghiệm ấy vì sốt sắng muốn đem lại cho mọi người sự đầy đủ của thế giới. Về điểm đó, anh cũng là nghệ sỹ chứ không phải là nhà bác học.
— Còn Ren Bô-dơ?
— Đối với anh ấy thì, thí nghiệm chỉ là một bước thiếp theo trên con đường nghiên cứu.
— Chị bào chữa cho tôi ư, Tsa-ra?
— Dứt khoát là như thế! Và tôi tin chắc rằng còn nhiều người nữa cũng nghĩ như tôi, họ chiếm đa số.
Mơ-ven Ma-xơ chuyển dây cương sang tay trái, tay phải chìa ra cho Tsa-ra. Họ vào cái xóm nhỏ của trạm y tế.
Sóng Ấn-độ-dương gào thét đều đều dưới bờ dốc. Tiếng sóng ầm ầm, Mơ-ven Ma-xơ nghe thấy nhịp bước của những nốt trầm trong bản giao hưởng của Di-gơ Do-rơ về sự sống băng mình vào vũ trụ. Và một nốt nhạc hùng mạnh, nốt nhạc cơ bản của thiên nhiên Trái đất — nốt fa màu xanh lơ — ca hát trên biển, khiến cho con người phải hưởng ứng bằng cả tâm hồn, phải hòa mình với thiên nhiên sinh ra mình.
Đại dương trong suốt, ngời sáng, không còn bị những dải chất thải làm bẩn, không còn những con cá mập ăn thịt, không còn những con cá có nọc độc, không còn những con vật thân mềm và những con sứa nguy hiểm, cũng như cuộc sống của con người thời nay đã gột sạch được sự hằn thù và sợ hãi của những thế kỷ trước. Nhưng ở đâu đó, trong không gian mênh mông của đại dương, vẫn có những góc bí mật, ở đó những mầm sống vẫn còn sót lại của sự sống có hại vẫn sinh sôi nẩy nở, và chỉ có tinh thần cảnh giác của các đội tảo thanh vệ sinh, chúng ta mới được an toàn và nước đại dương mới trong sạch.
Nếu như trong tâm hồn trong trắng của thanh niên bỗng nhiên nảy nở thói ương bướng độc ác, thói tự ti ngu độn và thói ích kỷ súc vật thì chẳng phải là cũng vì lý do giống như thế hay sao? Khi đó, nếu con người không phục tùng uy tín của một xã hội phát triển theo hướng đạt tới sự sự sáng suốt và tốt đẹp, mà chỉ theo thói háo danh bột phát và những dục vọng cá nhân của mình thì lòng can đảm biến thành tính hung dữ, sự sáng tạo biến thành thói ranh mãnh tàn bạo, còn đức tính trung thành và hy sinh trở thành thành trì của bạo quyền, của sự bóc lột và lăng nhục tàn bạo… cái vỏ kỷ luật và văn hóa xã hội dễ bị lột bỏ: chỉ cần một hai thế hệ sống tồi tệ là đủ. Ở đây, trên đảo Lãng-quên, Mơ-ven Ma-xơ đã nhìn vào mặt con thú ấy.
Nếu không kìm nó lại mà để nó tự do hoành hành thì thói chuyên chế quái gở sẵn sàng chà đạp tất cả mọi cái và thói lộng quyền trơ tráo đã từng trói buộc loài người hàng bao thế kỷ sẽ phát triển mạnh mẽ.
Trong lịch sử phát triển của Trái đất, có một điều đáng ngạc nhiên nhất: đó là lòng căm ghét không bao giờ tắt của những kẻ ngu dốt và độc ác đối với kiến thức và cái đẹp. Thái độ ngờ vực, sợ hãi và căm thù đó xuyên qua tất cả các xã hội loài người, bắt đầu từ sự sợ hãi những đạo sỹ và những thầy phù thủy thời cổ cho tới sự hành hạ những nhà tư tưởng đi trước thời đại mình trong kỷ nguyên Thế giới Chia rẽ. Điều đó cũng đã từng xảy ra trên các hành tinh khác có nền văn minh phát triển, nhưng chưa biết bảo vệ chế độ xã hội của mình thoát khỏi sự chuyên quyền của những nhóm thống trị ít ỏi xuất hiện bất ngờ bằng những mánh lới gian manh, dưới những hình thức rất khác nhau… Mơ-ven Ma-xơ nhớ tới những thông tin gửi đi trong Vành-khuyên, nói về những thế giới có người mà ở đó những thành tựu cao nhất của khoa học được dùng vào việc làm cho người ta sợ sệt, vào việc tra tấn và từng phạt, được dùng để đọc ý nghĩ, để biến quần chúng thành những kẻ ngu ngốc dễ bảo sẵn sàng chấp hành bất cứ mệnh lệnh quái gở nào. Lời kêu cứu từ một hành tinh như thế phát đi đã lọt vào Vành-khuyên và bay trong không gian mấy trăm năm sau khi những người những người gửi đi lời kêu gọi ấy và và những kẻ cầm quyền bạo tàn đã chết.
Hiện nay hành tinh của chúng ta đã ở một giai đoạn phát triển mà những nỗi khủng khiếp như vậy vĩnh viễn không thể có được nữa. Nhưng sự phát triển tinh thần của con người vẫn chưa đủ cao, tình trạng đó khiến cho những người như Ép-đa Nan không lúc nào không bận tâm đến.
— Họa sỹ Các-tơ Xan nói rằng đức hiền tài là sự kết hợp của kiến thức và và tình cảm.
Chúng ta sẽ trở thành những người hiền tài! — Tiếng Tsa-ra vang lên ở phía sau.
Và sau khi đã phóng vượt qua Mơ-ven Ma-xơ, Tsa-ra lao từ trên cao xuống xoáy nước ồn ào.
Mơ-ven Ma-xơ thấy cô gái xoay lộn nhịp nhàng trong không trung, dang hai tay ra như đôi cánh và biến mất trong sóng. Những thiếu niên của đội tảo thanh vệ sinh đang tắm ở phía dưới ngây ra vì sửng sốt. Mơ-ven Ma-xơ cảm thấy lưng lạnh đi vì một cảm giác khâm phục gần như sợ hãi. Chưa bao giờ anh nhảy từ một độ cao kinh khủng như thế. Nhưng lúc này, anh đang đứng trên bờ dốc mà không hề sợ hãi, và anh cởi bỏ quần áo. Sau này, anh nhớ lại rằng trong giây phút đó, giữa lúc mọi ý nghĩ lẫn lộn trong đầu, anh tưởng chừng Tsa-ra là một nữ thần của người đời xưa, vị thần có thể làm được tất cả. Nếu Tsa-ra làm được thì anh cũng làm được chứ sao!
Một tiếng kêu yếu ớt của cô gái bật lên giữa tiếng sóng ồn ào: cô can ngăn anh, nhưng Mơ- ven Ma-xơ đã lao xuống và không nghe thấy gì hết. Thời gian bay trong không trung kéo dài một cách thú vị. Là một kiện tướng điêu luyện về môn nhảy cao, Mơ-ven Ma-xơ đúng là chui tụt vào trong nước và chìm xuống rất sâu. Biển trong suốt kỳ lạ, đến nỗi đáy biển nom rất gần, gần đến mức nguy hiểm. Anh uốn cong mình và bị va đập choáng người do quán tính chưa hết đà, đến nỗi trong chốc lát, anh không còn nhận biết được gì nữa. Mơ-ven Ma- xơ vọt lên mặt nước như một chiếc tên lửa, lật ngửa người lên và bồng bềnh trên sóng. Lúc tỉnh lại, anh thấy Tsa-ra đã bơi đến gần. Lần đầu tiên, vẻ tái mét vì hoảng sợ khiến nước da màu đồng đỏ của cô gái nhợt đi. Ánh mắt cô đượm vẻ trách móc và thán phục.
— Anh làm thế để làm gì? — Cô thở hổn hển, thì thào.
— Vì chị làm như thế. Tôi sẽ theo chị đi bất cứ đâu… để xây dựng Đỗ-quyên ép-xi-lon trên Trái đất của chúng ta!
— Anh trở lại Thế giới Lớn với tôi chứ?
— Nhất định rồi!
Mơ-ven Ma-xơ lật người lại để bơi xa hơn, và anh kêu lên một tiếng vì bất ngờ. Độ trong suốt kỳ lạ của nước biển đã chơi khăm anh một vố, nhưng ở đây, cách xa bờ, nước biển lại càng trong hơn. Anh và Tsa-ra dường như bay lượn ở một chiều cao chóng mặt phía trên đáy biển, còn đáy biển thì hiện rõ từng chi tiết nhỏ qua lớp nước trong veo như không khí. Tâm hồn Mơ-ven Ma-xơ tràn ngập cảm giác táo bạo trịnh trọng mà những người vượt ra ngoài phạm vi sức hút Trái đất đều cảm thấy. Những chuyến bay vượt qua bão táp trên đại dương, những lần nhảy vào vực thẳm đen ngòm của vũ trụ từ những vệ tinh nhân tạo gợi nên cảm giác như thế: cảm giác về sự anh dũng và thành công vô hạn. Mơ-ven Ma-xơ bơi vùn vụt đến gần Tsa-ra, thì thầm gọi tên cô gái và đọc thấy câu trả lời nồng nhiệt trong đôi mắt trong sáng và táo bạo của cô. Tay họ và môi họ gắn lấy nhau ở bên trên cái vực thẳm trong như pha lê.